Tình trạng ô nhiễm tại các bến, cảng thủy nội địa.

Thực trạng ô nhiễm tại cảng, bến

Theo kết quả nghiên cứu từ đề tài “Quy trình giám sát môi trường cảng thủy nội địa cho khu vực phía Nam” do Cục Đường thủy nội địa Việt Nam thực hiện hoạt động tại các bến, cảng thủy nội địa đang có những tác động xấu đến môi trường. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ để xử lý, giám sát ô nhiễm môi trường tại đây chưa được chú trọng.

Trên cả nước hiện nay có gần 300 cảng thủy nội địa được chia làm 3 loại: Cảng đầu mối, khu vực do Trung ương và địa phương quản lý; Cảng, bến chuyên dùng do các nhà máy, xí nghiệp quản lý; Cảng, bến tự do do các xã, huyện, hợp tác xã, tư nhân quản lý.

Ông Nguyễn Đình Luyện, Chủ nhiệm đề tài cho biết: "Trong quá trình hoạt động của cảng, bến thủy nội địa có phát sinh chất thải bụi, tiếng ồn, chất thải rắn, nước thải… những chất thải này gây tác động đến môi trường. Những mặt hàng gây phát tán mùi khó chịu như lưu huỳnh, xăng dầu, phân bón, thức ăn gia súc đây là những loại hàng hóa dễ bay hơi, có mùi khó chịu cho những người xung quanh khu vực. Ngoài ra tiếng ồn trong khu vực cảng có mức cường độ âm khá lớn ồn gây ra do tàu thuyền hoạt động, sửa chữa tại cảng; do các máy xúc, do cẩu, do băng chuyền chuyển tải hàng hóa gây ô nhiễm tiếng ồn gây bệnh điếc nghề nghiệp cho người hoạt động trong khu vục đó".

Khí thải từ các phương tiện vận chuyển, máy móc thi công hoạt động trên cảng và dưới sông có thể gây ô nhiễm môi trường không khí, làm gia tăng khí hiệu ứng nhà kính…gây biến đổi khí hậu. Các bến, bãi thường không có mái che, hay vật liệu để che chắn, hàng hóa được giữ ngoài bãi thường là hàng rời, vật liệu xây dựng như: cát, đá, than, quặng, gỗ , phân bón...Do không được che chắn khi có gió làm cuốn theo bụi cát, mạt đá, than, quặng đi rất xa, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân sống khu vực xung quanh (gây các bệnh về hô hấp: viêm phổi và viêm phế quản mãn tính). Khi có mưa xuống nước mưa sẽ cuốn trôi các hàng hóa này xuống dòng nước gây ô nhiễm môi trường nước.

Chất lượng của phương tiện thủy nội địa Việt Nam thường không cao, nhiều phương tiện đã quá cũ, lạc hậu, hiệu suất đốt cháy nhiên liệu thấp và chưa có hệ thống xử lý khí thải... nên đã phát thải nhiều khí độc như SO2 , CO2 , CO, NO2 , CxHy...Có thể nói, đây chính là nguồn gây ra ô nhiễm cho môi trường không khí, tăng khí hiệu ứng nhà kính của ngành đường thủy nội địa.

Chưa ứng dụng công nghệ xử lý

Hiện nay việc thu gom chất thải tại các cảng, bến còn manh mún và chưa đồng bộ, các thiết bị thu gom và xử lý chỉ mang tính đối phó tượng trưng. Công tác phòng ngừa ô nhiễm môi trường, kiểm soát chất thải tại các cảng, bến thủy nội địa theo các quy chuẩn về chất lượng môi trường chủ yếu liên quan đến môi trường không khí và môi trường nước, đặc biệt là môi trường không khí. Hiện nay, việc áp dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật, các trang thiết bị hiện đại để xử lý ô nhiễm môi trường tại các cảng, bến thủy là chưa nhiều. Một số cảng xi măng, than, xăng dầu lớn được đầu tư trang thiết bị như hệ thống lọc bụi, phun sương, để nhằm hạn chế bụi. Các cảng, bến cũng lựa chọn công nghệ để chuyển tải hàng hóa xuống tàu theo công nghệ băng truyền, phễu chụp đây cũng là một trong nhưng biện pháp nhằm hạn chế phát tán bụi tới môi trường.

Việc áp dụng công nghệ xử lý ô nhiễm tại các cảng, bến chưa nhiều.

Theo ông Luyện, hiện nay việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại để xử lý ô nhiễm môi trường tại các cảng, bến thủy chưa nhiều. Chỉ một số cảng xi măng, than, xăng dầu lớn được đầu tư trang thiết bị như hệ thống lọc bụi, phun sương, chuyển tải hàng hóa xuống tàu theo công nghệ băng truyền, phễu chụp để nhằm hạn chế bụi. Giám sát môi trường trong lĩnh vực đường thủy nội địa, hiện chưa có một trung tâm hay phòng chuyên môn nào được đầu tư công nghệ, kỹ thuật thực hiện chức năng này. Giám sát mới chỉ thực hiện dừng lại ở việc đi thanh tra, kiểm tra hiện trạng hoạt động thực tế tại các cơ sở và theo dõi, giám sát thông qua việc kiểm tra về mặt hồ sơ, giấy tờ do các cơ sở cung cấp. Đây chính là bất cập lớn trong công tác giám sát môi trường đối với các hoạt động đường thủy nội địa”

Hầu hết tất cả các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực đường thủy nội địa đều không đầu tư công nghệ, kỹ thuật giám sát môi trường. "Chủ yếu là lấy mẫu định kỳ đem về phân tích tại phòng thí nghiệm, đo nhanh tại hiện trường một số chỉ tiêu cơ bản, chứ chưa có cảng thủy nội địa nào đầu tư lắp đặt thiết bị công nghệ quan trắc phát thải, giám sát ô nhiễm tự động, liên tục”, ông Luyện nhấn mạnh.

Quy rõ trách nhiệm

Với đặc thù vị trí nằm ven bờ sông và các kênh (phụ lưu của các con sông lớn) chảy xuyên qua địa phận nhiều tỉnh, thành, thông ra biển và thậm chí có những con sông vượt qua địa phận biên giới quốc gia sang các nước khác trong khu vực, các hoạt động tại cảng, bến thủy nội địa tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm chất lượng nước sông, dẫn tới gây ô nhiễm môi trường xuyên biên giới. Chính vì vậy, công tác kiểm soát, giám sát môi trường tại các cảng, bến thủy nội địa cần phải được trú trọng và đặt lên hàng đầu.

Cần quy rõ trách nhiệm đến các đối tượng gây ô nhiễm tại các cảng, bến thủy nội địa.

Theo ông Luyện trước thực trạng nói trên, việc xây dựng và hình thành quy trình giám sát môi trường riêng cho cảng thủy nội địa là rất cần thiết đối với vấn đề bảo vệ môi trường trong thời đại hội nhập phát triển mà lĩnh vực đường thủy nội địa được khai thác triệt để. Quy trình giám sát môi trường cảng thủy nội địa được xây dựng: quy định rõ trách nhiệm của các đối tượng có liên quan đến hoạt động cảng thủy nội địa, đó là: Nhà quản lý, chủ cảng, bến thủy nội địa và các đối tượng tham gia các hoạt động tại cảng, bến thủy nội địa; đưa ra các chỉ dẫn, hướng dẫn cụ thể đối với các vấn đề về quản lý chất thải, giám sát ô nhiễm, giám sát sự cố rủi ro môi trường...

Ngoài việc đầu tư công nghệ, thiết bị kỹ thuật, cần ban hành Sổ tay hướng dẫn quy trình giám sát ô nhiễm môi trường mới ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường đối với các dòng sông, đẩy lùi nguy cơ gây ô nhiễm môi trường xuyên biên giới.

Theo tapchigiaothong.vn