Theo đánh giá của Bộ Công an, tai nạn giao thông 10 tháng năm 2023 có liên quan đến học sinh so với cùng kỳ năm 2022, tăng 08 vụ (+0,92%), giảm 33 người chết (-6,31%), giảm 34 người bị thương (-3,95%). Trong đó có 737 vụ do thiếu niên, học sinh dưới 18 tuổi đi bộ, trực tiếp điều khiển phương tiện liên quan trong vụ TNGT, làm chết 378 người, bị thương 658 người.

- Phân tích 737 vụ do thiếu niên, học sinh dưới 18 tuổi là người đi bộ, người điều khiển phương tiện liên quan trong vụ TNGT:

+ Về phân loại: TNGT gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: Xảy ra 02 vụ (0,27%), làm chết 06 người, bị thương 03 người (tại Hà Giang và Lào Cai). TNGT rất nghiêm trọng xảy ra 25 vụ (3,39%), làm chết 50 người, bị thương 10 người (Gia Lai 04 vụ, Tiền Giang 03 vụ; Hà Nội, Phú Thọ, Long An mỗi địa phương 02 vụ; Tuyên Quang, Lào Cai, Điện Biên, Ninh Bình, Đồng Tháp, Đắk Lắk, Ninh Thuận, Đắk Nông, Bình Phước, Cà Mau, Bình Định, Bắc Kạn mỗi địa phương 01 vụ). TNGT nghiêm trọng xảy ra 322 vụ (43,69%), làm chết 322 người, bị thương 131 người; ít nghiêm trọng và va chạm giao thông xảy ra 388 vụ (52,65%), làm bị thương 514 người.

+ Về thời gian xảy ra TNGT: Từ 0-6h (chiếm 6,17%), từ 6-12h (chiếm 21,97%), từ 12-18h (chiếm 31,61%), từ 18-24h (chiếm 40,25%); các ngày trong tuần: Thứ 2 (chiếm 14,46%), thứ 3 (chiếm 13,23%), thứ 4 (chiếm 12,89%), thứ 5 (chiếm 13,23%), thứ 6 (chiếm 13,12%), thứ 7 (chiếm 16,37%), chủ nhật (chiếm 16,70%).

+ Về tuyến đường xảy ra TNGT: Quốc lộ (chiếm 27,54%), đường tỉnh (chiếm 21,71%), đường huyện (chiếm 29,04%), đường xã (chiếm 13,43%), các tuyến đường khác (chiếm 8,28%).

+ Về phương tiện điều khiển liên quan trong vụ TNGT: Xe mô tô trên 175cm3 (chiếm 0,44%), xe mô tô từ 50-175cm3 (chiếm 71,31%), xe hai bánh dưới 50cm3 (chiếm 15,93%), xe đạp (chiếm 4,88%), xe đạp điện (chiếm 4,09%), xe máy điện (chiếm 3,01%), xe ba bánh (chiếm 0,35%).

+ Về nguyên nhân xảy ra TNGT: Đi không đúng phần đường, làn đường, chiều đường quy định (chiếm 21,41%), không chú ý quan sát (chiếm 19,39%), chuyển hướng không đúng quy định (chiếm 11,77%), tránh vượt không đúng quy định (chiếm 7,06%), không nhường đường (chiếm 4,71%), không giữ khoảng cách an toàn (chiếm 3,36%), sử dụng rượu bia (chiếm 2,69%), vi phạm tốc độ (chiếm 2,69%), không chấp hành biển báo hiệu đường bộ (chiếm 3,14%), đi bộ qua đường không đúng quy định (chiếm 3,14%). Đang điều tra (chiếm 14,91%).

Tình hình liên quan đến TTATGT, TTXH

- Xảy ra 03 vụ đua xe trái phép, tạm giữ 57 đối tượng trong lứa tuổi học sinh, 51 xe mô tô; 201 vụ tụ tập chạy xe phóng nhanh, lạng lách, đánh võng gây mất TTCC tạm giữ 395 đối tượng trong lứa tuổi học sinh, 537 mô tô.

- Xảy ra 16 vụ chống người thi hành công vụ, làm bị thương 10 đồng chí, đã bắt giữ 16 đối tượng trong lứa tuổi học sinh bàn giao cho cơ quan điều tra xử lý.

Bộ Công an đánh giá: Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự cố gắng, nỗ lực của các bộ, ban, ngành, địa phương và các lực lượng chức năng, công tác bảo đảm TTATGT nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần bảo bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến địa phương đã xác định công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông cho học sinh là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của Nhân dân, qua đó, công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông cho học sinh có nhiều chuyển biến tích cực; chính quyền các địa phương, các lực lượng tham gia bảo đảm TTATGT và các nhà trường đã cố gắng, khắc phục khó khăn để hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong công tác này.

Tuy nhiên công tác bảo đảm TT ATGT liên quan đến học sinh còn tồn tại, hạn chế sau: (1) Tai nạn giao thông liên quan học sinh xảy ra nhiều hết sức lo ngại làm gần 500 em chết mỗi năm và hơn 800 em bị thương để lại những hậu quả nặng về đối với cá nhân các em, gia đình và xã hội, trong đó 10 địa phương xảy ra nhiều là:

Địa phương

Số vụ

Chết

Bị thương

TP.Hồ Chí Minh

155

60

130

Gia Lai

48

41

30

Tiền Giang

28

24

20

Bình Phước

25

19

15

Hà Nội

46

19

59

Vĩnh Long

21

19

17

Bình Dương

31

17

36

Long An

18

16

9

An Giang

22

15

19

Bến Tre

13

12

3

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(2) Tình trạng học sinh vi phạm pháp luật về an toàn giao thông hiện nay ngày càng phổ biến và có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là hiện tượng học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông đi học bằng phương tiện xe máy điện, xe máy, xe mô tô, không đội mũ bảo hiểm, dàn hàng ngang, chạy quá tốc độ, vượt ẩu, lạng lách, đánh võng, gây rối trật tự công cộng, không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông, kéo đẩy xe khác, sử dụng điện thoại khi điều khiển phương tiện, đặc biệt là điều khiển phương tiện khi chưa có giấy phép lái xe đang diễn ra khá phổ biến, làm gia tăng nguy cơ tai nạn giao thông. Qua số liệu cho thấy lỗi vi phạm học sinh chưa đủ tuổi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy chiếm 47,59% và hệ quả là tai nạn giao thông liên quan điều khiển xe trên 50 phân khối chiếm 71,31%.

(3) Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa hiệu quả, nhiều học sinh chưa được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi tham gia giao thông; nhiều phụ huynh, nhà trường chưa nhận thức được đầy đủ trách nhiệm trong công tác này.

 (4) Tổ chức giao thông tại khu vực cổng trường và trong trường học còn nhiều bất cập, nhất là các trường nằm trên các tuyến đường trục chính đô thị, đường quốc lộ, tỉnh lộ nơi có mật độ phương tiện nhiều và phương tiện giao thông cơ giới lưu thông với tốc độ lớn; một số cơ sở giáo dục chưa bố trí được điểm dành cho phụ huynh dừng, đỗ phương tiện chờ đón con, em dẫn đến tình trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè gây mất TTATGT tại khu vực trường học.

Nguyên nhân khách quan tồn tại, hạn chế là phương tiện phù hợp với lứa tuổi học sinh điều khiển tăng nhanh, qua theo dõi số liệu đăng ký xe mô tô, xe gắn máy và xe máy điện thì trung bình mỗi năm số lượng phương tiện đăng ký mới tăng khoảng 0,3%, với nhiều chủng loại phương tiện đa dạng khác nhau, cụ thể: Số liệu đăng ký xe mô tô (có dung tích xi lanh từ 50 cm3 trở lên) hiện đang quản lý là 69.012.525 xe và đăng ký mới 10 tháng đầu năm 2023 là 1.959.508 xe (trung bình đăng ký năm 2022 so với năm 2021 tăng 0,29%). Số liệu đăng ký xe gắn máy hai bánh (có dung tích xi lanh dưới 50 cm3) hiện đang quản lý là 4.672.797 xe và đăng ký mới 10 tháng đầu năm 2023 là 213.129 xe (trung bình đăng ký năm 2022 so với năm 2021 tăng 0,33%). Số liệu đăng ký xe máy điện hiện đang quản lý 1.976.254 xe và đăng ký mới 10 tháng đầu năm 2023 là 155.346 (trung bình đăng ký năm 2022 so với năm 2021 tăng 0,46%).

Hệ thống hạ tầng giao thông ở một số đô thị lớn đang ở trong tình trạng quá tải do số lượng phương tiện giao thông tăng nhanh hàng năm, mật độ phương tiện tham gia giao thông trên các tuyến đường cao, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ không theo kịp, chưa đáp ứng yêu cầu vận tải, đi lại của Nhân dân. Trong đó, hạ tầng giao thông tại khu vực trước các cổng trường còn nhiều bất cập; đường hẹp, lượng xe ra vào đông, vỉa hè không đủ chỗ khiến nhiều người phải đỗ xe tràn ra lòng đường, dẫn đến thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông… là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc đảm bảo an toàn cho học sinh.

Nguyên nhân chủ quan: (1) Một số ngành và cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm, chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, vai trò của việc đảm bảo ATGT cho học sinh là xây dựng thế hệ công dân Việt Nam trong tương lai chấp hành tốt pháp luật, ứng xử văn minh khi tham gia giao thông, là bảo vệ nguồn lực tương lai cho đất nước. Do đó, chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm, giải pháp đã được xác định và nhiệm vụ được phân công trong công tác bảo đảm TTATGT cho lứa tuổi học sinh.

(2) Việc phối hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội để quản lý, giáo dục học sinh chấp hành pháp luật về TTATGT còn chưa hiệu quả, một bộ phận còn thiếu trách nhiệm dẫn đến khi học sinh ra khỏi nhà thì gia đình xem là việc của xã hội, của nhà trường; khi học sinh ra khỏi trường thì nhà trường xem là việc của xã hội, của gia đình.

(3) Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn chung chung, hình thức chưa thực sự tác động hiệu quả đến đối tượng đặc thù là học sinh. Một số nội dung triển khai trong trường học còn mang tính hình thức, nhất là việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện ký cam kết giữa nhà trường với phụ huynh học sinh còn hạn chế; nội dung về an toàn giao thông chưa được đưa vào các cuộc họp phụ huynh... Nhiều nhà trường buông lỏng quản lý, nhất là trong việc tổ chức trông giữ xe cho các cháu; thiếu nghiêm túc trong xử lý các trường hợp vi phạm coi như không phải trách nhiệm của nhà trường, của giáo viên chủ nhiệm.

(4) Công tác giáo dục an toàn giao thông đã được các cơ sở giáo dục lồng ghép vào trong chương trình chính khóa nhưng chưa có khung chương trình chuẩn cho từng cấp học; các nội dung học về an toàn giao thông chưa được thể hiện rõ nét trong nội dung thi và kiểm tra đánh giá, dẫn tới tình trạng học nhưng không thi do đó các nội dung này cũng chưa được học sinh và phụ huynh quan tâm; những tài liệu giáo dục an toàn giao thông ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm theo chưa nhiều, dẫn đến học sinh chưa ghi nhớ thành kiến thức lâu dài; các nội dung giảng dạy trong trường học cơ bản giới hạn ở phần lý thuyết, khối lượng thực hành còn hạn chế, do các trường không có đủ điều kiện để thực hiện; phần thực hành kỹ năng tham gia giao thông và điều khiển các phương tiện của học sinh chủ yếu phụ thuộc vào việc quan tâm giảng dạy của cha mẹ học sinh, người giám hộ, trong khi đó một số gia đình chưa quan tâm, còn phó mặc cho con em mình tự tìm hiểu, tự thực hành dẫn tới thiếu kỹ năng thực hành.

 (5) Một bộ phận phụ huynh, người giám hộ còn thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong quản lý con cái, chưa nêu gương trong chấp hành nghiêm các quy định về TTATGT khi tham gia giao thông, nhất là trong khi chở con em mình trên xe (như: Chở trẻ em không đội mũ bảo hiểm, vượt đèn đỏ, sử dụng rượu bia khi lái xe...) dẫn tới làm ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức và hành vi của các em.

(6) Việc tổ chức giao thông tại khu vực các cổng trường học hiện nay đang có nhiều vấn đề đặt ra: ùn tắc giao thông vào giờ đến trường, tan học; nhiều trường học có vị trí gần hoặc nằm dọc các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, gần khu họp chợ; bên cạnh đó tình trạng phụ huynh đưa, đón con đến trường cũng vi phạm các quy định của pháp luật về trật tự, an toàn giao thông (như dừng đỗ xe lấn chiếm cả lòng đường, lề đường đứng chờ con, chen lấn nhau di chuyển không tuân theo quy tắc giao thông)… những vi phạm này tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến các vụ tai nạn giao thông, gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông và cho chính bản thân các em học sinh. Nhiều điểm đen, điểm tiềm ẩn xảy ra tai nạn giao thông khu vực trường học được xác định nhưng chưa được khắc phục kịp thời.

(7) Việc xử lý vi phạm khi phát hiện hành vi vi phạm với học sinh còn gặp khó khăn, do công tác phối hợp giữa lực lượng chức năng với nhà trường (chưa có các quy định rõ ràng về đầu mối tiếp nhận thông tin vi phạm TTATGT của học sinh đối với nhà trường, quy trình xử lý trong nhà trường, chuyển thông tin cho gia đình cùng giáo dục, trách nhiệm của gia đình...).

(8) Một số địa phương buông lỏng quản lý hoạt động vận chuyển, đưa đón học sinh dẫn tới các vụ TNGT liên quan tới dịch vụ đưa đón học sinh (như vụ TNGT tại Đồng Nai tháng 2/2023 một xe đưa đón học sinh trong khi lùi xe làm 1 học sinh lớp 3 tử vong).

(9) Mặt trái của internet và các trang mạng xã hội đã tác động tiêu cực đến nhận thức, hành vi của giới trẻ hiện nay, trong khi đó nhiều người trưởng thành, thậm chí người nổi tiếng, người có ảnh hưởng trong xã hội có những hành vi không chuẩn mực, quay clip đua xe, bốc đầu, đánh võng đăng tải lên mạng xã hội nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng rất không tốt đến giới trẻ.

Ánh Minh